Tại hội thảo quốc tế với chủ đề “Bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống đương đại” vừa được Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh tổ chức, các chuyên gia trong nước và quốc tế cùng nhau “hiến kế” nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của tranh dân gian Đông Hồ – di sản đặc biệt có tuổi đời gần 5 thế kỷ để lại những dấu ấn đậm nét trong văn hóa Việt Nam, nhưng hiện dòng tranh này đang mai một dần và gần như bị rơi vào quên lãng.

Về chủ thể của di sản, nếu trước đây cả làng Đông Hồ có 17 dòng họ, tất cả đều làm tranh, nay chỉ còn 2 dòng họ bám nghề, với 2 nghệ nhân trụ cột là Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Quả. Mỗi dòng họ, kể cả thợ chính và phụ có khoảng 10 người. Trong đó, số người thừa kế được các công đoạn công phu như ra mẫu, khắc ván in, pha màu rất ít, chỉ có 1, 2 người con trong gia đình, còn lại đều làm những công đoạn giản đơn như in tranh, giã điệp, nấu hồ, phơi tranh… Làng Hồ xưa, thôn Đông Khê hiện nay (thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) trở thành làng sản xuất hàng mã sầm uất.
Trước thực trạng trên, GS.TS Trương Quốc Bình, Ủy viên Hội đồng Di sản Việt Nam phân tích, nguyên nhân là do tập quán chơi tranh và sử dụng tranh không còn phổ biến như trước đây, tục mua tranh treo ngày Tết không còn, nên nhu cầu tiêu thụ sản phẩm với số lượng lớn để duy trì hoạt động của các làng nghề không còn nữa. Mặt khác, nghề làm giấy dó ở Yên Thế (làng Bưởi, Tây Hồ, Hà Nội) cũng đang mai một nên nguồn cung cấp nguyên liệu truyền thống chủ yếu để làm tranh dân gian cũng bị ngừng trệ. Đồng thời, sự thay đổi trong việc sử dụng các vật liệu làm giấy và in tranh cũng khiến những yếu tố truyền thống bị tan loãng.
Theo đánh giá của một số hoạ sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc thắm như tranh cổ do việc trộn màu trắng vào điệp, quét lên giấy và sử dụng màu công nghiệp. Mặt khác, nhiều ván in mới không được chạm khắc tinh tế nuột nà như các bản ván khắc trước đây. Việc một số hộ sản xuất đục bỏ các phần chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều bức ván in khiến ý nghĩa của một số bức tranh bị ảnh hưởng, làm suy giảm tính nguyên gốc, tính hấp dẫn của những họa phẩm này…
Một thực trạng khác là số gia đình và nghệ nhân tranh dân gian tại các làng tranh truyền thống như Đông Hồ và làng Sình còn lại không nhiều. Vì vậy, sự truyền dạy, truyền nghề và kế nghiệp các nghệ nhân đã, đang và vẫn sẽ là những thách thức không nhỏ cho công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa này. Cần có những chính sách hữu hiệu để duy trì sự truyền dạy của các nghệ nhân và hứng thú tiếp thu nghề của các thế hệ trẻ để có thể duy trì những kinh nghiệm và tinh hoa nghề nghiệp truyền thống.
Về vấn đề phát huy dòng tranh Đông Hồ trong đời sống đương đại, PGS.TS Từ Thị Loan – Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam nhấn mạnh: Giải pháp có ý nghĩa sống còn đối với việc duy trì nghề tranh Đông Hồ hiện nay là tìm được đầu ra ổn định với số lượng lớn cho các sản phẩm tranh. Nhà nước cần phối hợp, giúp đỡ các nghệ nhân đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, giúp làng nghề duy trì sản xuất. “Xu hướng thẩm mỹ của thế giới hiện nay, khách hàng nước ngoài, nhất là khách Âu châu rất thích các sản phẩm thủ công làm bằng tay, chứa đựng bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là các sản phẩm làm từ nguyên liệu thiên nhiên, thân thiện với môi trường. Tranh dân gian Đông Hồ đáp ứng được các yêu cầu đó. Do vậy, trước mắt, cần tạo điều kiện cho làng nghề tái chinh phục các thị trường truyền thống (như Đông Âu và Nga), sau đó mở rộng sang các thị trường khác, như đưa tranh dân gian Đông Hồ vào các kế hoạch xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm ở cấp độ chính sách quốc gia”, PGS.TS Từ Thị Loan phân tích.
Ở góc độ khác, ThS Đỗ Trần Phương (Trường đại học Văn hóa Hà Nội) bày tỏ, trước mắt cần quy hoạch, phát triển làng tranh Đông Hồ trở thành điểm du lịch cộng đồng để tất cả hộ dân có thể tham gia phát triển. Tuy nhiên, để tua du lịch tại làng nghề thêm hấp dẫn, các nhà thiết kế, xây dựng sản phẩm du lịch cần phải thêm vào chương trình những hoạt động có giá trị.
Có thể nhận thấy, việc giữ gìn, tôn vinh và phát triển nghề làm tranh dân gian Đông Hồ hiện nay là công việc cần thiết và cấp bách, không chỉ có ý nghĩa lớn trong việc bảo tồn di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc, còn góp phần xây dựng một sản phẩm văn hóa trở thành công cụ quảng bá, giới thiệu về văn hóa Việt Nam ra với thế giới.