Home / Kinh tế / Công nghiệp / Diễn đàn năng lượng sạch Việt Nam lần thứ tư

Diễn đàn năng lượng sạch Việt Nam lần thứ tư

Ngày 11/07/2024; tại TP.HCM đã diễn ra diễn đàn Năng lượng sạch lần thứ tư, với chủ đề: cơ chế, chính sách phát triển điện khi, điện gió, điện rác, năng lượng sinh khối theo Quy hoạch điện VIII – Thực trạng và giải pháp tháo gỡ.

Diễn đàn diễn ra trong 03 phiên như:

Phiên 01: nói về những bất cập về cơ chế, chính sách đầu tư phát triển hạ tầng kho, căng và mua, bán LNG cho các dự án điện khi (giai đoạn 2021 – 2030) – Đề xuất giải pháp tháo gỡ.  Có 03 bài tham luận đề cập đến: phát triển nguồn điện đến năm 2030 theo Quy hoạch điện VIII – Mục tiêu, thực trạng và dịnh hướng một số giải pháp của Viện Năng lương – Bộ Công Thương. Nhu cầu vốn đầu tư các dự án điện trong quy hoạch điện VIII – Thách thức và đề xuất giải pháp tháo gỡ của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam. Thực trạng và giải pháp phát triển điện khi LNG,| tại Việt Nam của Tổng Công ty Khí Việt Nam (PVGAS).

Phiên 02: Cơ chế, chính sách cho phát triển các dự án điện gió (trên bờ và ngoài khơi) theo Quy hoạch điện VIII – Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế. Có 04 bài tham luận đề cập đến các vấn đề như: một số vấn đề về quy trình cấp phép khảo sát biển và tiến độ quy hoạch không gian biển quốc gia, của Cục Biển và Hải đảo Việt Nam – Bộ Tài nguyên và Môi trường. Cơ cấu nguồn điện hợp lý của Việt Nam giai đoạn 2025 – 2030 và các giải pháp đảm bảo vận hành hệ thống điện an toàn, ổn định, của Trung tâm Điều độ Hệ thống điệu Quốc gia (EVNNLDC). Nội địa hoá chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp điện gió tại Việt Nam: cơ hội và Thách thức, của Công ty Xây dựng Công trình IPC.Kinh nghiệm toàn cầu trong việc xây dựng chính sách khởi tạo ngành công nghiệp điện giờ ngoài. Khơi – CEO Copenhaden Infrastructure Parners (CIP) tại VN.

Phiên 03: cơ chế, chính sách cho phát triển các dự án điện rác, năng lượng sinh khối theo Quy hoạch điện VIII – Thực trạng và giải pháp tháo gỡ. Với 03 bài tham luận: các yếu tố quan trọng nhằm hỗ trợ thực hiện thành công Quy hoạch điện VIII – Giám đốc dự án Chương trình hỏ trợ năng lượng GIZ. Cơ chế chính sách huy động vốn FDI thực hiện đầu tư các dự án điện thuộc PDP VIII và Khung pháp lý cho các hoạt động Phân loại xanh, Tin dụng Xanh, Tài trợ Xanh và Trái phiếu Xanh để thực hiện đầu tư các dự án điện trong PDP VIIL – Thường trực Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam. Chia sẻ thông tin đầu tư tại khu vực Asean – Linh vực đốt rác phát điện –  Công ty China Everbright International Limited VPOD Việt Nam.

Theo báo cáo của Viện Năng lương – Bộ Công Thương:

Quyết định 262 đã xác định phân bổ công suất nguồn điện gió ngoài khơi theo vùng; danh mục và tiến độ cụ thể của các dự án nguồn điện quan trọng, ưu tiên đầu tư: điện than, điện khí nội, LNG, đồng phát, thủy điện lớn và thủy điện tích năng, pin lưu trữ. Nhiệt điện LNG; giai đoạn đến năm 2030, dự kiến phát triển 13 dự án/22.400 MW nhiệt khí hóa lỏng (LNG). Hầu hết các dự án LNG đang triển khai đầu tư đều gặp khó khăn trong việc thu xếp vốn, đàm phán hợp đồng mua bán điện và hợp đồng chuyên giá khí.

Trong 17.890 MW điện gió tăng thêm giai đoạn 2023-2030, có 77 dự án/4185 MW thuộc các dự án điện gió chuyển tiếp. Đây là các dự án hoặc một phần dự án điện gió trên bờ đã ký PPA với EVN trước ngày 01/11/2021 nhưng không đáp ứng điều kiện áp dụng giá mua điện quy định tại Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ.

Tổng công suất điện sinh khối và điện sản xuất từ rác toàn quốc đạt khoảng 390 MW năm 2023. Nguồn điện này có thể phát triển đến quy mô khoảng 2.270 MW vào năm 2030, tương ứng với công suất tăng thêm khoảng 1.880 MW. Trong đó, dự kiến có khoảng 766 MW điện sinh khối và 1.112 MW điện rác. Tuy nhiên, mới chỉ có 299 MW điện sinh khối và 361,7 MW điện sản xuất từ rác, tương ứng với 39% và 33% tổng công suất tăng thêm của mỗi loại hình nguồn điện, đã được xác định danh mục dự án cụ thể.

Ứớc tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải vào khoảng 134,7 tỷ USD, trong đó đầu tư cho nguồn điện khoảng 119,8 tỷ USD, lưới điện truyền tải khoảng 14,9 tỷ USD. Từ vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước ước tính khoảng 42 tỷ USD, vốn xã hội hóa khoảng 92,7 tỷ USD, tổng nhu cầu vốn đầu tư nguồn và lưới điện truyền tải. Riêng phần đầu tư nguồn điện, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước khoảng 28 tỷ USD, vốn xã hội hóa khoảng 90,9 tỷ USD. Có thể thấy, nhu cầu vốn đầu tư phát triển nguồn điện theo QHĐ VIII rất lớn, chiếm 89% tổng vốn đầu tư theo QHĐ VIII.

Cục Biển và Hải đảo:

Đặc điểm các dự án điện gió trên biển là công suất lớn, số vốn đầu tư lớn, địa hình địa chất phức tạp… nên nhu cầu khảo sát phát triển các dự án điện gió không chỉ dừng lại ở thông tin kết quả đo gió trong tối thiểu 12 tháng liên tục và các thông tin khác theo quy định của Thông tư 02/2019/TT-BCT mà các Chủ đầu tư, nhà tài trợ vốn còn cần nhiều thông tin hơn trước khi đưa ra quyết định đầu tư.

Trong quá trình giải quyết các đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi và đề xuất giải pháp tháo gỡ. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nêu một số vướng mắc khó khăn như: vướng mắc về pháp lý, vướng mắc về kỹ thuật.

Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã khẩn trương tham mưu Bộ Tài nguyên và Môi trường để trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/02/2021 của Chính phủ quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển và trình Chính phủ.

Hiệp hội Năng lượng điện VN:

Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành điện; cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021 – 2030, với tổng công suất các nhà máy điện là 150.489 MW và diện thương phẩm khoảng 505,2 tỷ kWh. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỷ USD (trung bình 13,5 tỷ USD/năm), trong đó đầu tư cho nguồn điện khoảng 119,8 tỷ USD (trung bình 12,0 tỷ USD/năm), lưới điện truyền tải khoảng 14,9 tỷ USD (trung bình 1,5 tỷ USD/năm).

Trong nhiều năm, EVN luôn được coi là người chịu trách nhiệm đầu tư lớn nhất trong các dự án điện. Nhưng, thị phần nguồn điện thuộc EVN ngày càng giảm đi. Đến năm 2023, trong quy mô tổng công suất nguồn điện 80.556 MW, tổng công suất nguồn thuộc EVN và các công ty con (GENCO1, 2 và 3) chiếm 14,9% và 22,3% tương ứng, nghĩa là tổng công suất thuộc EVN đầu tư và quản lý vận hành chỉ còn 37,2% toàn hệ thống. Doanh nghiệp Nhà nước có quy mô công suất tiếp theo là PVN chiếm 7,7%, TKV chiếm 2,3%. Các nhà đầu tư ngoài nhà nước chiếm 52%, trong đó BOT chiếm 11,2%. Có thể thấy thị phần công suất nguồn của các DNNN hiện nay đã xuống dưới 50%.

Hiện EVN đang triển khai xây dựng dự án điện than Quảng Trạch 1-1.200 MW, vốn đầu tư 41.130 tỷ đồng, khởi công cuối năm 2021 và dự kiến vào vận hành nửa cuối năm 2026. Hai dự án tiếp theo là điện khí Dung Quất 01 và 02 quy mô 2 x 750 MW, tiến độ phụ thuộc vào nguồn khi từ mỏ Cá Voi Xanh, sớm nhất cũng vào năm 2028.

Huy Cường